Thứ bảy, Tháng mười một 16, 2024
No menu items!
spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Danh Chúa Đầy Đủ

Đọc Xuất Ai-cập 3

1Bấy giờ Môi-se đang chăn bầy chiên cho Giê-trô, ông gia mình, là thầy tế lễ xứ Ma-đi-an.

Ông dẫn bầy chiên qua bên kia hoang mạc và đến Hô-rếp là núi của Đức Chúa Trời.

2Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với ông trong ngọn lửa, giữa một bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai cháy nhưng không hề tàn.

3Môi-se tự nhủ: “Ta phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ nầy, tại sao bụi gai không hề bị thiêu rụi.”

4Đức Giê-hô-va thấy ông đến gần để xem, Đức Chúa Trời từ giữa bụi gai gọi: “Hỡi Môi-se, Môi-se!” Ông thưa rằng: “Có con đây!”

5Đức Chúa Trời phán: “Đừng đến gần! Hãy cởi dép khỏi chân con vì chỗ con đang đứng là đất thánh.”

6Rồi Ngài lại phán: “Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ con, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp.” Môi-se liền che mặt vì sợ nhìn thấy Đức Chúa Trời.

7Đức Giê-hô-va phán: “Ta đã thấy rõ nỗi khốn khổ của dân Ta tại Ai Cập và đã nghe thấu tiếng họ kêu than vì các đốc công. Phải, Ta biết được nỗi đau đớn của họ.

8Ta ngự xuống để giải cứu dân nầy khỏi tay người Ai Cập, đem họ ra khỏi xứ ấy, đưa đến một vùng đất tốt đẹp và rộng rãi, đượm sữa và mật, tức là nơi ở của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít.

9Nầy, tiếng kêu than của dân Y-sơ-ra-ên đã thấu đến Ta; Ta đã thấy người Ai Cập áp bức họ như thế nào.

10Vậy bây giờ, hãy lại đây, Ta sẽ sai con đến Pha-ra-ôn để con đem dân Ta, là dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi Ai Cập.”

11Nhưng Môi-se thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ôn và đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập?”

12Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ ở với con. Đây là dấu hiệu để con biết rằng Ta đã sai con đi: Khi con đã đem dân chúng ra khỏi Ai Cập rồi thì các con sẽ thờ phượng Đức Chúa Trời trên núi nầy.”

13Môi-se thưa với Đức Chúa Trời: “Nếu con đi đến với dân Y-sơ-ra-ên và nói với họ: ‘Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em sai tôi đến với anh em;’ và họ hỏi con: ‘Tên Ngài là gì?’ thì con sẽ nói với họ thế nào?”

14Đức Chúa Trời phán: “TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU.” Ngài lại phán: “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘ĐẤNG TỰ HỮU đã sai tôi đến với anh em.’”

15Đức Chúa Trời lại phán với Môi-se: “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên thế nầy: ‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, sai tôi đến với anh em’Đây là danh đời đời của Ta, Là danh ghi nhớ qua mọi thế hệ.

16Hãy đi triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ rằng: ‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ông, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra với tôi và phán: Ta đã thật sự quan tâm đến các con và thấy những điều người ta đối xử với các con tại Ai Cập.

17Ta hứa rằng Ta sẽ đưa các con ra khỏi cảnh khổ đau tại Ai Cập và đem các con vào đất của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, là vùng đất đượm sữa và mật.’

18Họ sẽ vâng theo lời con. Vậy con và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên hãy đi yết kiến vua Ai Cập và nói rằng: ‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, đã hiện ra với chúng tôi. Bây giờ, xin bệ hạ cho chúng tôi đi ba ngày đường vào hoang mạc để dâng sinh tế cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi.’

19Tuy nhiên, Ta biết rằng vua Ai Cập sẽ chẳng bao giờ cho các con đi, nếu không có bàn tay quyền năng can thiệp.

20Vì vậy, Ta sẽ ra tay trừng phạt Ai Cập bằng các phép lạ mà Ta sẽ làm giữa xứ đó, và rồi họ sẽ cho các con đi.

21Ta sẽ làm cho dân nầy được ơn dưới mắt người Ai Cập để khi ra đi, các con sẽ chẳng ra đi tay không.

22Nhưng mỗi phụ nữ sẽ xin người lân cận và người nữ tạm trú trong nhà mình các món đồ bằng vàng, bằng bạc và quần áo, rồi mặc vào cho con trai con gái mình. Như thế, các con sẽ tước đoạt của cải người Ai Cập.”

Câu căn bản: Đức Chúa Trời phán:”Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.” Ngài lại phán: “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Đấng Tự Hữu đã sai tôi đến với anh em.” Câu 14.

Suy niệm: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu hay Chúa Hằng Hữu là tên tiếng Việt dịch nghĩa chữ Giê-hô-va hay Gia-vê. Thật ra Đức Chúa Trời là Đấng luôn hiện hữu. Ngay từ khởi nguyên Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật. Tên Chúa được đề cập đến từ Sáng Thế tới Khải Huyền. Dù hoàn cảnh nào hay lịch sử biến chuyển ra sao, danh hiệu của Chúa luôn luôn đầy đủ.

Đối với Môi-se, Chúa tự xưng là: Ta Là.

Danh hiệu này diễn ý có thể là: “Ta sẽ là tất cả những gì con cần vào lúc nào hay nơi nào con cần.”

Khi bạn cần thì Chúa có mặt. Ngài là Đấng Vĩnh Hằng có quyền năng.

Bạn mắc bệnh chăng? Chúa Vĩnh Hằng sẽ chữa lành.

Bạn phạm tội chăng? Chúa Vĩnh Hằng có quyền thanh tẩy.

Bạn lầm lạc không biết đi về hướng nào chăng? Chúa là Đấng chăn dắt chỉ lối dẫn đường.

Bạn đang bối rối trong khó khăn chăng? Chúa ban bình an.

Bạn hiểu ý nghĩa tên Chúa chưa? Tên Chúa là nguồn mạch của mọi khả năng.

Nhu cầu của bạn là gì chăng nữa tên Chúa vẫn phong phú và đầy đủ.

Khi lĩnh tụ Môi-se phân vân nghi ngờ, không yên tâm và lo lắng, Chúa bảo: “Đấng Ta Là sẽ ở cùng con. DanhTa sẽ ở với con.”

Mỗi ngày hãy cầu nguyện với niềm tin rằng danh quyền năng của Chúa bênh vực bảo vệ mình.

Danh ấy đã hứa đơn giản rằng luôn đầy đủ cho bạn đối đầu với mọi cảnh ngộ

Vâng, danh Chúa là một nơi trú ẩn thường xuyên nhất.

Danh Chúa cứu giúp bạn trong bão tố. Hãy hết lòng tin.

Nhân danh Chúa thì bệnh tật bị xua đuổi, người bị giam cầm được buông thả, kẻ tội nhân được tha thứ.

Không có danh hiệu nào khác được tôn trọng khắp đất trời như thế.

Lời cầu nguyện đề nghị:

Cảm tạ Chúa vì đã ban cho con tên của Ngài. Tất cả nhu cầu của con đều do từ danh Ngài cung ứng. A-men.

Nguyễn Sinh

Bài viết trước
RELATED ARTICLES
Theo dõi trangspot_img

BÀI VIẾT PHỔ BIẾN