Thứ năm, Tháng mười hai 26, 2024
No menu items!

Bà Giáo Sĩ HOMERA HOMER DIXON

BÀ HOMERA HOMER DIXON

(1893 – 1942)

NỮ GIÁO SĨ TIỀN PHONG TẠI VIỆT NAM

Cách đây khoảng nửa thế kỷ, chính xác hơn là tháng 12 – 1942, người viết bài này mới 12 tuổi. Một đêm thứ bẩy, nằm mơ theo cha đi nhà thờ sáng Chúa Nhật, gặp mấy cô bạn học Trường Chúa Nhật đang đứng khóc bên cổng nhà thờ. Cậu bé tỉnh dậy, và hôm sau Chúa Nhật theo cha và các anh em đi nhà thờ Hàng Da – Hà Nội.

Đến cổng nhà thờ, thật lạ lùng, cậu bé nhìn thấy các cô Đặng Thị Ngọ, Lê Thị Hồng An (con cụ Mục sư Lê Văn Thái) và mấy cô nữa đang đứng khóc thổn thức. Các cô cho biết tin là bà Giáo sĩ Homera Homer Dixon đã qua đời. Thật vậy, buổi nhóm sáng hôm ấy một không khí tang tóc bao trùm Hội thánh Hà Nội. Mục sư Lê Văn Thái, quản nhiệm Hội thánh bùi ngùi báo tin buồn: Nữ Giáo sĩ Homera H. Dixon đã qua đời! Tất cả mọi người đều yên lặng, ngậm ngùi, có nhiều bà oà khóc, còn các ông đều ứa lệ thương nhớ nữ Giáo sĩ H.H. Dixon đã ra đi về nước Chúa.

Những ngày tháng cuối thập niên 1930, người ta thường thấy hai mẹ con một bà ngoại quốc sống trong khuôn viên Hội thánh Tin lành Hà Nội toạ lạc trên góc đường Ngõ Trạm, đường Hàng Da và Phạm Phú Thứ trước mặt chợ Hàng Da. Bà mẹ, khoảng trên 40 tuổi, thường mặc chiếc áo dài Việt Nam bằng nhung, dáng dấp nhẹ nhàng, khuôn mặt phúc hậu với nụ cười tươi tắn trên môi. Đó là hình ảnh còn in đậm nét trong lòng mọi người có dịp gặp gỡ nữ Giáo sĩ Homera Homer Dixon. Mọi người nhìn bà như một nhân vật rất được ngưỡng mộ cũng như phần lớn các thanh, thiếu, nhi đồng của thời đó được bà dạy Kinh Thánh và dạy đàn hát. Với lớp người trẻ, bà là “Chị Hoa Hồng”, Hội trưởng Hoa Tâm hội của Thanh, Thiếu niên, Nhi đồng Hội thánh Tin lành Việt Nam.

Theo tài liệu của Cố Mục sư Hội trưởng Hội thánh Tin lành Việt Nam Lê Văn Thái, bà Homera Homer Dixon là nữ Giáo sĩ tiền phong người Canada đến Việt Nam từ năm 1928. Trước hết, bà đến Đà Lạt học tiếng Việt và trông nom trường dạy các con của các giáo sĩ người Anh, Mỹ, … tại Villa Alliance, Đà Lạt.

Mùa đông 1929, bà ra Hà Nội, tiếp tục học tiếng Việt, lo việc giảng dạy, soạn sách, viết bài cho Thánh Kinh Báo. Hồi đó, chúng tôi được học những bài viết cho trang Nhi đồng của Thánh Kinh Báo về những loài hoa, các loài động vật, ký tên là Chị Hoa Hồng ( bút hiệu của bà H.H. Dixon) cùng những bài viết ích lợi cho việc dạy dỗ Thiếu nhi trong mục Vun Khóm Cây Xanh (Thánh Kinh Báo) cùng với cố Mục sư Đỗ Đức Trí.

Bà cũng mở lớp Thánh Kinh Tiểu Học Đường cho người Việt tại Hà Nội và cho người Mèo ở Chapa (nay là Sa Pa) cho đến năm 1941. Sau đó, bà vào Đà Nẵng giúp dạy học tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng và cộng tác với Giáo sĩ E.F. Irwin mở lớp Thánh Kinh Tiểu Học Đường cũng tại Đà Nẵng.

Thời gian sau, bà cùng Giáo sĩ D.I. Jeffrey mở lớp Thánh Kinh Tiểu Học Đường tại Cần Thơ và Sài Gòn, đồng thời mở lớp học Kinh Thánh ở chi hội Thanh Lợi, Cần Thơ, dạy ở  nhà ông Huyện Diệp.

Bà H.H. Dixon lâm bệnh nặng khi đi giảng tại Ô Môn. Được đưa vào bệnh viện Cần Thơ, vì không đủ dụng cụ y khoa, nên bà được đưa về bệnh viện Sài Gòn. Sau khi mổ, bà qua đời hồi 12 giờ 30 ngày 12 tháng 6 năm 1942, để lại nỗi đau buồn tiếc nuối cho toàn thể tín hữu Hội thánh Tin lành Việt Nam.

Bà H.H. Dixon là nữ Giáo sĩ tiền phong người Canada đã hết lòng hầu việc Chúa tại Việt Nam, tận hiến đời mình để truyền rao Tin lành cứu rỗi, và là vị Giáo sĩ đầu tiên gửi xác tại Việt Nam.

Ngoài tài soạn sách dạy về lẽ đạo, âm nhạc, bà lại có ơn giảng dạy, có lòng yêu thương, đặc biệt đối với người Việt Nam. Bà ra đi để lại nhiều kỉ niệm tốt đẹp về tình yêu thương trong sạch, đậm đà, gương sáng về đức khiêm nhường của Chúa Cứu Thế, và tinh thần kiên nhẫn, phục vụ noi gương Ngài. Tinh thần yêu mến Chúa và tính tình khiêm nhu dịu dàng của bà còn lại mãi trong lòng con dân Chúa ở Việt Nam.

Với lòng chân thành, kính mến, chúng tôi viết bài này để tưởng niệm và ngưỡng mộ bà Homera Homer Dixon, nữ Giáo sĩ tiền phong, người tận hiến cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và người Việt Nam hồi bình minh của thế kỷ hai mươi.

Vũ Đức Nghiêm

 

 

TRÁI TIM VÀNG NGỪNG ĐẬP

Ngày 13 Décembre 1942, trong khi làm lễ kỷ niệm bà Giáo sĩ Homera Homer Dixon ngủ yên trong Chúa tại Sài Gòn ngày 6 Décembre 1942, bản báo chủ bút có nói mấy lời sau nầy.

Hỡi anh em yêu dấu.

Nhơn danh cô Elizabeth, Mẫu hội, Thánh Kinh Báo và chính mình, bổn báo chủ bút xin hết lòng cảm ơn anh em đã tỏ lòng thương xót bởi dự lễ kỷ niệm bà Homera Homer Dixon, bởi lời nói, thơ từ và điện tín phân ưu.

Chị yêu dấu của chúng ta, bà Homera Homer Dixon, là một giáo sĩ tài năng lỗi lạc, tận tụy hi sinh và được mọi người yêu mến. Đúng lắm, có người nói với tôi rằng bà có một trái tim vàng, đã dâng hết cả mọi sự vì kính mến Đức Chúa Trời và yêu thương kẻ đồng loại trầm luân.

Thật là một cái tang đau đớn cho Mẫu hội và cho công cuộc cứu vớt linh hồn ở Đông Dương. Nhưng, nguyện ý chỉ Đức Chúa Trời “được nên ở đất như trời”.

Hiện nay chúng ta không hiểu vì cớ gì Đức Chúa Trời đã rước bà về sớm vậy, nhưng khi Đức Chúa Jesus trở lại thế gian nầy để lập nước công bình, bác ái và hòa bình, thì chúng ta sẽ hiểu và sẽ lại gặp chị yêu dấu của mình. Hi vọng tốt đẹp thay trong Đấng Christ! Ngợi khen Đức Chúa Trời.

Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho chúng tôi, là kẻ còn ở lại. Hỡi anh em, “hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu”. (I Cô-rinh-tô 15:58).

Chúng ta hãy nghe lời Chúa phán: “Khá giữ trung tín cho đến chêt, rồi Ta sẽ ban cho ngươi mũ triều thiên của sự sống”.

Thánh Kinh Báo

 

 

BÀ HOMERA DIXON

VỚI CÔNG VIỆC CHÚA Ở VIỆT NAM

Mục sư Lê Văn Thái, Hội trưởng Hội Tin lành Việt Nam

Năm 1928. Chúa đã đưa bà giáo sĩ Homera Homer Dixon và con là cô Elizabeth tới đất Việt Nam. Bà lên Đà Lạt, khởi sự học tiếng Việt Nam và trông nom nhà trường con các giáo sĩ. Mùa đông năm 1929, Chúa mở đường cho bà ra Hà Nội, kế tiếp học tiếng, lo việc giảng dạy, soạn sách viết bài trong Thánh Kinh Báo, mở Thánh Kinh Tiểu học đường giữa người Việt Nam tại Hà Nội và người Mèo ở Chapa cho tới năm 1941.

Sau bà vào Tourane, giúp dạy trong trường Kinh Thánh, và hiệp với ông bà E.F. Irwin mở Thánh Kinh Tiểu học đường tại Tourane. Rồi đi Cần Thơ, hiệp với bà D.I. Jeffrey dạy Tiểu học đường. Xong khóa ấy, bà lên Sài Gòn mở Tiểu học đường tại chi hội Sài Gòn. Rồi đến chi hội Thạnh Lợi (Cần Thơ), mở Tiểu học đường dạy trong nhà ông Huyện Diệp. Bà phát bịnh khi đi giảng ở Ô Môn, đưa về Cần Thơ, ở đây không có đủ đồ cần dùng, nên phải chở đến nhà thương Sài Gòn. Sau khi bị mổ, bà đã từ giã chúng tôi hồi 12 giờ 30 ngày 6 – 12 – 1942. Năm nay bà 49 tuổi. Bà đã đi về trong nhà Cha vinh hiển đời đời mà yên nghỉ, thật là một cái tang rất đau buồn và thương tiếc của toàn thể Hội Tin lành Việt Nam chúng ta.

Bà là người rất có tài soạn sách, được ơn trong sự giảng dạy, có lòng rất âu yếm, lại giàu tình cảm với người Việt Nam. Bà cũng là vị giáo sĩ thứ nhứt gởi xác trong đất Việt Nam, đợi ngày Chúa Jesus trở lại.

Bà Homera Homer Dixon đi rồi, để lại giữa chúng tôi tình yêu thương đậm đà và trong sạch, một gương sáng về đức khiêm nhường và kiên nhẫn làm việc, một tinh thần hoạt động êm dịu của Đấng Christ. Tôi mong rằng tinh thần của Đấng Christ trong bà Homer Dixon còn lại và cứ lưu ra mãi mãi trong Hội Tin lành Việt Nam. Tôi thay mặt Hội Tin lành Việt Nam và gia đình tôi, tỏ lòng rất đau đớn mến tiếc bà Homer Dixon, cùng chia buồn với cô Elizabeth và Mẫu hội.

Mục sư Lê Văn Thái

 Hội trưởng Hội Tin lành Việt Nam.

 

BÀ HOMER DIXON VỚI HỘI THÁNH HÀ NỘI

Ngày 6 Décembre 1942, là một ngày buồn của Hội thánh Hà Nội, vì một chị em rất thân yêu của chúng tôi, bà Homera Homer Dixon đã về với Chúa tại Sài Gòn. Được tin dữ đó, chúng tôi hết thảy đều đau đớn, thương tiếc và khóc lóc một tôi tớ Chúa đã hi sinh cả đời sống và tiền tài cho công việc Chúa.

Hơn mười năm trời, Chúa đã dùng bà giúp đỡ Hội thánh chúng tôi rất nhiều. Bà đã mở mang các nhà giảng nhánh, gây dựng ban âm nhạc, giúp đỡ việc xây cất đền thờ và nhà tư thất, thăm viếng và an ủi các anh chị em yếu đuối. Lúc nào bà cũng vui vẻ và tận tâm với chức vụ. Trong khi bà ở Hà Nội, tối nào bà cũng đi các nhà giảng nhánh mà rao truyền Lời Chúa cho những người chưa biết Ngài. Chúa Nhựt nào bà cũng đi với một hai chị em trong ban làm chứng, vào từng nhà mà bán sách và cắt nghĩa về đạo cho mọi người biết.

Bà rất yêu mến người Việt Nam ở Bắc Kỳ. Trong lúc sanh thời bà thường nói: “Chúa đã đặt tôi ở Hà Nội và giữa công việc Chúa ở Bắc Kỳ”. Sau khi đi Tourane và Nam kỳ để lo việc mở Thánh Kinh Tiểu học đường, bà đã có ý trở lại và ở luôn với chúng tôi từ tháng Décembre nầy. Nhưng chắc Chúa thấy việc bà đã trọn rồi, nên Chúa cất bà đi để tránh khỏi thế gian nầy. Rất tiếc là khi bà lâm bịnh, chúng tôi không có dịp ở gần mà thăm viếng và chia sẻ sữ đau đớn với bà.

Trong dịp nầy, Hội thánh chúng tôi xin chia buồn cùng cô Elizabeth và Mẫu hội. Nguyền xin Chúa sẽ dùng cô Elizabeth như Chúa đã dùng bà Homer Dixon, và xin Chúa cứ ban nhiều phước lành trên Mẫu hội trong lúc nầy!

Hội thánh Hà Nội.

 

BÀ HOMER DIXON NGỦ YÊN TRONG CHÚA

Mục sư O.D. Gockler, Hội Tin lành Pháp

“Từ rày phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa! Đức Thánh Linh phán: Phải, vì những kẻ ấy được nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau”. (Khải huyền 14:13)

Ai nấy sửng sốt khi nhận được tin bà Homera Homer Dixon, chị yêu dấu của chúng ta trong Chúa, đã qua đời.

Một người như bà, nét mặt luôn luôn hớn hở, khả ái, hiền từ, sáng sủa, càng thân thiết với ta bao nhiêu, càng làm cho ta khó lòng tưởng bà chẳng còn ở giữa chúng ta nữa. Bà qua đời thật là một cái tang lớn cho toàn thể Hội Tin lành, và nhứt là cho chúng ta bấy lâu vẫn quí mến bà.

Vậy nên hôm nay, thay mặt Hội Tin lành Pháp ở Bắc kỳ và phía bắc Trung kỳ, tôi xin chia buồn cùng các giáo sĩ, Hội Tin lành Việt Nam, và Hội thánh Hà Nội.

Thật bà đã ngủ yên trong Chúa! Ai quen biết bà, cũng cảm thấy đức tin lớn của bà. Bà kính mến Cứu Chúa mình hết lòng, hết ý, hết linh hồn.

Có một sự trống trải cho gia đình bà, nhứt là cô Elizabeth hiện ở Tourane, và cho chúng ta, buồn thảm và đau đớn biết dường nào!

Bà Homer Dixon là dòng dõi trâm anh, trí thức cao đẳng; nhờ gia tài của cha mẹ để lại, bà có thể sống một cuộc đời phong lưu nơi tổ quốc. Nhưng bà đã dâng trọn mình để hầu việc Chúa. Chẳng có sự hi sinh nào lớn quá cho bà. Chẳng hề mệt mỏi, bà hết sức rao giảng Tin lành để cứu vớt những linh hồn hư mất.

Bà đã chết trong chức vụ, chết đang khi hầu việc Chúa, đã ngủ yên trong đức tin. Phước thay, giờ nầy bà đã thoát khỏi mọi sự lo lắng, khổ não, và ở cuối đường đời bà được nghe Chúa khen ngợi rằng: “Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, hãy hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi”. Giờ nầy bà đã thấy Chúa đối mặt. Bà đã dâng hết của cải, thì giờ và sức lực, thường khi làm việc đến một, hai giờ sáng. Viết báo, soạn sách, dạy Kinh Thánh, đi thăm bịnh nhơn, giảng dạy buổi tối, bà không hề nghĩ tới sự nghỉ ngơi. Cũng vì thế, bà mau kiệt sức.

Khi nghỉ mát ở miền Thượng du Bắc kỳ, bà cũng hết sức làm việc. Nói là nghỉ, nhưng thật ra là đổi chỗ làm việc. Bà học tiếng của một bộ lạc, soạn sách cho họ, và bắt đầu giảng Tin lành cho họ.

Xong công việc rồi, giờ nầy bà yên nghỉ, mặc dầu bà vẫn còn sốt sắng ước mong hầu việc Chúa nhiều hơn nữa. Bà đã vào trong sự bình an của Chúa sau khi chỉ cho biết bao nhiêu linh hồn thấy đường đến cùng Cứu Chúa. Phải, bây giờ bà yên nghỉ, nhưng sẽ chẵng hề bị quên mất. Chúng ta sẽ nhớ bà mãi mãi, và công việc của bà sẽ cứ sống luôn.

Trên đường đời bà đã để lại biết bao dấu chơn tốt lành, đã gieo biết bao hạt vàng quí báu, đã làm biết bao việc nhơn đức kín giấu mà chỉ Đức Chúa Trời biết mà thôi. Bà treo một gương sáng sủa, đẹp đẽ cho kẻ hầu việc Chúa. Chắc bà còn mong chúng ta hết thảy dâng trọn mình cho Chúa để kính mến và hầu việc Ngài một cách trung thành, tận tụy như bà đã làm suốt đời vậy, hầu cho một ngày kia, những lời Chúa phán về bà cũng có thể phán về chúng ta, rằng: “Những kẻ khôn sáng sẽ được rực rỡ như sự sáng trên vòng khung; và những kẻ dắt đem nhiều người về sự công bình sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi” (Đa-ni-ên 12:3).

A-men!

 

 

MỘT ĐỜI ĐƯỢM HƯƠNG THƠM

Khóc nữ giáo sĩ Homera Homer Dixon

Luồng gió lạnh dập dồi cây cỏ,

Lá vàng rơi, sương vỡ đầu nhành.

Khung trời mở lúc tàn canh,

Con chim lâm nạn thất thanh kêu buồn.

Thiên nhiên chạnh niềm thương, ứa lệ,

Xé ruột gan, bỗng mẹ lìa con.

Thân gần năm chục tuổi tròn,

Thiên ân nhuần gội tâm hồn nâng nâng.

 

Xót đồng loại trầm luân biển tội,

Vượt ngàn trùng đến või Việt Nam.

Tay tiên nâng đỡ người phàm,

Nụ cười ru kẻ điêu tàn phiêu linh.

Lời tiên đạo Tin lành đồn mãi,

Hồn tiên vương muôn sợi yêu thương.

Cánh tiên bao quản dặm trường,

Hương thơm từ trái tim vàng bay xa.

 

Nào những lúc trăng tà, sao khuyết

Lời khẩn cầu tha thiết vì ai.

Nào khi gió thoảng hiên mai,

Lụy hồng giáo sĩ khóc người luân vong.

Nào khi trước minh mông trời biển,

Dạ bồi hồi nghe tiếng chiên than,

Chiên than như dứt can tràng,

Liễu bồ xá quản trăm ngàn hi sinh.

 

Kìa, kẻ mất bạn lành yêu dấu;

Nọ, con côi nương náu vào ai?

Nầy, người đâu yếu canh dài,

Đây thân đói lạnh, kia đời cô đơn;

Trước đau khổ, tâm hồn héo hắt,

Tưới nước thiêng, dập tắt lửa hừng.

Rắc ơn, nào tiếc của, công,

Cao sâu trời biển, vẹn lòng ái nhân.

 

Trên giáo sĩ Tử Thần đập cánh,

Giữa đường hoa trút gánh, thương thay!

Nước non, cây cỏ đâu đây?

Mảnh hồn trong trắng trao tay Chân Thần.

Tin sét đánh muôn phần đau đớn,

Trời tươi xanh phút nhuộm u sầu.

Đoái trông cảnh vật rầu rầu,

Hoa tàn, cỏ úa, người đâu hỡi người?

 

Muôn giòng lụy ngậm ngùi tưới mộ,

Muôn trái tim ấp ủ sương tàn.

Gởi thân lượn sóng thời gian,

Hình dường phảng phất theo làn mây bay.

Con đơn chiếc đắng cay, chua xót,

Mẹ mỗi ngày lại một xa xăm.

Chơn trời mắt phượng đăm đăm,

Hỡi ôi! Tài, hạnh bao năm chôn vùi!

 

Nào đâu những nụ cười thân ái?

Nào đâu lời mềm mại, nâng niu?

Nào đâu tim đượm thương yêu?

Trời Nam một tấm gương treo không mờ.

Đờn du dương, đường tơ đứt đoạn,

Yến vẫy vùng lâm nạn ngàn sương.

Bầy chim nhớ bạn kêu thương,

Đêm khuya ngơ ngác, dặm trường tìm ai.

 

Trên Thiên Quốc muôn đời vui thỏa,

Đã bao ngày lã chã châu rơi.

Biển thương còn có đầy vơi?

Hồn thương còn có xót người trầm luân?

Trong vinh hiển, cõi trần còn nhớ?

Lưỡi gươm thiêng rơi bỏ cho ai?

Tiếc thay, hiền đức, anh tài!

Ra đi, nỡ để bao người ngẩn ngơ.

 

Đỗ Đức Trí, Hà Nội

 

VÀO NƯỚC VINH QUANG

Giữa ban trưa, giựt mình vì tắt nắng,

Trong đêm rầm, ngơ ngác mất vừng trăng.

Trên sa trường đương vui mừng lúc thắng,

Tiếc anh hùng vội khuất nẻo xa xăm…

 

Khối mây đen dập tắt ánh trăng ngà,

In khung trời thẫm lên mầu thê thảm.

Não nùng, ôi! cơn gió rên ai oán,

Hồn giáo sĩ sớm vượt cõi trần ai;

Vang khắp chốn, thổn thức vạn muôn người,

Im lặng, nghiêng mình, khóc, thương, nhớ, tiếc.

Em ái hương bay đượm hồn khôn xiết,

Nghĩa hi sinh còn để dấu trên đời,

Gương bác ái cao rọi ánh sáng tươi,

Bóng hiền nhơn luôn ghi hồn giáo sĩ,

Am đượm hương thơm, im mầu tuyệt mỹ,

Hồn thanh cao nhẹ cất cánh thiên du.

O, giáo sĩ vui thỏa vào cõi Thiên đô,

Muôn đài vinh quang là nhà giáo sĩ…

En kêu rêu, gió lùa, hoa rầu rĩ,

Rung ngành vàng để đau đớn nụ xanh,

Đám sanh linh đợi giáo sĩ nhơn lành,

In nét thảm vì thiếu người thăm viếng,

Xót thương đem cho giọt thuốc Tin lành.

Ôi! Lòng đau tuôn tràn đôi mắt lệ,

Nhớ tiếc nhà giáo sĩ sớm chia tay…

 

Trần Văn Cân, Hà Nội

Bài viết trước
Bài tiếp theo
RELATED ARTICLES
Theo dõi trangspot_img

BÀI VIẾT PHỔ BIẾN